Đền Củi tên đầy đủ là Đền Chợ Củi có tên chữ là Khu Độc Linh Từ được tạo lập vào cuối đời nhà Lê, là ngôi đền linh thiêng thờ Đức Quan Hoàng Mười bên dòng sông Lam hữu tình là một trong những danh thắng có phong cảnh nổi tiếng thuộc xã Xuân Hồng, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Cách trung tâm Thành Phố Vinh chừng 10 cây số về phía Nam hoặc Trung tâm Thành phố Hà Tĩnh 40km về phía Bắc theo QL1.
Đền Chợ Củi, theo truyền thuyết năm xưa chính là nơi di quan ông Hoàng Mười trôi về và hóa. Ngày ông giáng sinh 10/10 âm lịch được coi là ngày tiệc chính của ông, vào ngày này, du khách thập phương nô nức đến chiêm bái cửa đền ông thật là tấp nập, trải dải đến tận đôi bờ sông Lam, người ta dâng ông: cờ quạt bút sách … để cầu tài cầu lộc cũng là cầu mong cho con em được đỗ đạt khoa cử, thành tài để làm rạng danh tổ tông. Khi thỉnh Ông Mười, văn hay hát rằng:
“Ông Mười trấn thủ Nghệ An
Về huyện Thiên Bản làm quan Phủ Dày”
Thờ chính: Đức Quan Hoàng Mười, Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Hàng năm ở đền Củi có 3 ngày đại lễ:
- Ngày 3/3 âm lịch giỗ Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh;
- Ngày 20/8 âm lịch giỗ Hưng Đạo đại Vương;
- Ngày 10/10 âm lịch lễ hội Đức Quan Hoàng Mười.
Toàn cảnh – Lịch sử đền Củi
Từ cầu Bến Thuỷ theo quốc lộ 1A đi về hướng Nam, men theo chân núi Ngũ Mã, rồi xuôi theo bờ sông du khách sẽ thấy dưới chân núi Ngũ Mã, ẩn hiện trong vườn cây cổ thụ có một ngôi đền cổ kính uy nghi là đền Chợ Củi hay còn gọi là Đền Củi. Đây chính là nơi dãy Hồng Lĩnh vườn mình sà và dòng sông Lam. Đền tọa lạc trên núi Khu Độc thuộc Ngũ Mã hướng về phương Bắc, tựa lưng vào núi nhìn xuống Lam giang. Các tòa điện cao dần theo thế núi uy nghiêm, đường bệ dưới bóng nhiều cây cối cổ thụ.
Đến với đền Củi có thể đi bằng đường bộ, đường sông đều thuận lợi. Hàng năm, đền thu hút một lượng lớn khách đến tham quan, đặc biệt là dịp Tết đến xuân về.
Trên mặt Tiền ở nhà hạ điện dài 9m, rộng 0,6m của ngôi đền có 4 chữ hán to: “Thánh mẫu linh từ”. Nghiên cứu các tài liệu thành văn và khảo sát thực địa, có thể khẳng định ban đầu vị thần được thờ chính trong đền Củi là thánh mẫu Liễu Hạnh. Hiện nay chưa tìm được niên đại ra đời của đền Củi. Khi Lê Khôi đến trấn thủ ở Nghệ An đã thấy có ngôi đền này nhưng quy mô còn rất nhỏ và lợp tranh. Sau nhiều lần trùng tu tôn tạo đền mới được lợp ngói.
Diện mạo ngôi đền Củi ngày nay, có phong cách kiến trúc đậm đà dấu ấn thời Nguyễn. Tam quan ngôi đền liền kề bờ sông, cao hai tầng, kiến trúc theo kiểu “Lưỡng long chầu nguyệt” với những đường nét điêu khắc tinh tế. Từ tam quan bước lên mười hai bậc đến hạ điện, ngôi đền được bố trí thành các cung thờ Tam tòa thánh mẫu, ngũ vị Tôn ông, cung Hoàng Mười, cung Trần Triều.
Truyền thuyết về Đức Quan Hoàng Mười
– Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Nghệ An. Ông là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều dị bản.
– Trong tâm thức dân gian của người vùng Hà Tĩnh – Xứ Nghệ, ông Hoàng Mười còn là hiện thân của vị tướng tài Lê Khôi (Nghĩa quân Lam Sơn), gọi Lê Lợi bằng chú. Ông theo Lê Lợi và có nhiều công lớn trong 10 năm chống giặc Minh xâm lược, sau làm đến nguyên thần tam triều Lê gia, phong đến chức Khâm Sai Tiết Chế Thủy Lục Chư Dinh Hộ Vệ Thượng Tướng Quân.
Có chuyện kể rằng, là tướng tài của nhà Lê, khi ông đánh thắng giặc trở về thì một trận cuồng phong ập vào làm nhiều nhà dân vị đổ nát. Thương dân ông lại cùng binh sỹ lên ngàn chặt tre, gỗ đưa về giúp dân làm nhà. Một lần không may khi bè về đến chân Hồng Lĩnh ở núi Ngũ Mã thì cuồng phong lại ập đến làm vỡ bè, ông gặp nạn. Quân sỹ và dân làng chưa kịp mai táng cho ông thì mỗi đã đùn đất lên thi hài ông thành mộ. Cảm phục và biết ơn ông, người dân đã lập đền thờ. Ông rất linh thiêng và thường hiển thánh cứu giúp muôn dân.
Ông mất năm Bính Dần (1446), an táng trên ngọn Long Ngâm của núi Nam Giới, huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh và được xây đền thờ. Sau đó ông lại được tấn phong là Uy Mục Đại Vương rồi Chiêu Trưng Đại Vương năm 1487.
– Cũng ở xứ Nghệ, ông Hoàng Mười được dân gian đồng nhất với nhân vật lịch sử nổi tiếng khác gắn bó với vùng quê này là Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, con trai thứ tám của Lý Thái Tổ từng làm Tri Châu Nghệ An.
– Nhưng sự tích được lưu truyền nhiều nhất có lẽ là câu chuyện: Ông Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh (cũng chính là nơi quê nhà). Tại đây ông luôn một lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lần xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mở kho lương cứu tế.
Trong một lần đi thuyền trên sông, đến đoạn chân núi Hồng Lĩnh, thì lại có đợt phong ba nổi lên, nhấn chìm thuyền của ông và ông đã hóa ngay trên sông Lam. Trong khi mội người đang thương tiếc cử hành tang lễ, thì trời quang đãng, nổi áng mây vàng, bỗng thấy thi thể của ông nổi trên mặt nước nhẹ tựa như không, sắc mặt vẫn hồng hào tươi tắn như người đang nằm ngủ, khi vào đến bờ, đột nhiên đất xung quanh ùn ùn bao bọc, che lấy di quan của ông. Lúc đó trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã (có bản nói là xích điểu) và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về trời. Sau này khi hiển ứng, ông được giao cho trấn thủ đất Nghệ Tĩnh, ngự trong phủ Nghệ An. Nhân dân suy tôn ông là Ông Hoàng Mười (hay còn gọi là Ông Mười Củi) không chỉ vì ông là con trai thứ mười của Vua Cha (như một số sách đã nói) mà còn vì ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn (“mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn), không những ông xông pha chinh chiến nơi trận mạc, mà ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn chương, không chỉ nơi trần thế mà các bạn tiên trên Thiên Giới ai cũng mến phục, các nàng tiên nữ thì thầm thương trộm nhớ. Sau các triều đại đã sắc tặng Ông Mười tất cả là 21 sắc phong (tất cả đều còn lưu giữ trong đền thờ ông).
Dù hiện thân của Chiêu Trưng Đại Vương hay Uy Minh Vương, nhưng ông Hoàng Mười vẫn rất gần gũi, gắn bó và có cái gì đó phù hợp với tâm lý và phong cánh người xứ Nghệ. Đó là con người có chí khí nam nhi, anh hùng ngang dọc, có tài văn võ và trí dũng hơn người. Ông biết lo nghĩ cho cuộc sống của dân chúng, biết vì dân, không ham danh lợi…
Kiến trúc đền Củi
Trước đền sông nước mênh mang tạo nên không gian kiến trúc huyền ảo, linh thiêng. Qua vài lần tôn tạo nhưng đền vẫn giữ được nét xưa thần bí, hài hòa với cảnh quan sông núi. Tam quan của Đền Củi được xây dựng theo kiểu chữ tam gồm ba tòa, mỗi tòa ba gian. Mặt trước tam quan có câu đối:
“Lam giang hiển hách tự thiên thu
Ngũ mã anh linh chung tú khí”.
Phía trong tam quan là hồ bán nguyệt ở sân thấp nhất của đền, vòng qua hồ qua 7 bậc thềm đến sân trên, tại đây các tòa thống nhất liên kết với nhau và bố trí thành các cung thờ.
Quang cảnh Đền Củi – Đền Quang Hoàng Mười (Nghi Xuân – Hà Tĩnh)
Miếu cô Chín và bia đặt ở góc trái và góc phải phía trước sân ngoài. Hai góc phía trước sân trong là miếu Cô, miếu Cậu. Ba miếu trên đều thờ quân gia, thế thần của đức thánh mẫu Liễu Hạnh. Tam quan cùng với hệ thống miếu Cô, miếu Cậu tạo thành đai khép kín tách khu nội thất và ngoại thất thành 2 phần chính phụ rõ rệt. Cấu trúc các phần chính, phụ, thượng, hạ, tả, hữu, tiền hậu được bố trí theo một trục chính dọc theo tâm đỉnh cao dần về phía sau. Công trình vừa có tính liên hoàn, vừa tách biệt. Đây là kiểu thức kiến trúc khá phổ biến của đền chùa Việt Nam cuối Lê đầu Nguyễn. Tam quan khá uy nghi, cửa chính giữa có trụ cao 2,85m xây kiểu chồng diêm. Trên cùng có 2 con rồng cách điệu chầu nhau. Từ Tam quan đi vào 8m là hồ Bán Nguyệt.
Hạ điện gồm 3 gian, 4 vì, 8 cột bằng lim. Tại gian giữa hạ điện có đặt Long Ngai và tượng Hưng Đạo đại Vương trong tư thế ngồi.
Trung điện gồm 3 gian, 2 hồi, gian chính giữa gồm một bức tượng trong tư thế ngồi, đó là tượng Chiêu Trưng đại Vương Lê Khôi.
Thượng điện nhỏ và cao hơn trung điện và hạ điện. Thượng điện là nơi cung kính nhất, đặt bàn thờ tam toà thánh mẫu gồm có 3 bức tượng làm bằng gỗ quý được sơn son thiếp vàng đang ngồi, mắt sáng, tai to, vẻ mặt trung hậu. Bàn thờ bên trái đặt một pho tượng, nhân dân gọi là tượng ông Hoàng Mười.
Ở cung thờ ông Hoàng Mười có hai bức đại tự “Mẫu Đức Chiếu ảnh” và “Huyền Từ Bố Chững” cùng câu đối:
“Quá giả hóa tồn giả thần vị liệt Nam bang tứ bất
Quốc hữu từ gia hữu danh cao thiên bản lục kỳ”
dịch:
“Cái đã qua là hóa, cái còn lại là thần, nước Nam có bốn vị bất tử
Nước có đền, nhà có miếu, trời cao vốn có lục kỳ”.
Xưa nay, người ta truyền tụng đền thiêng, mọi người đến cầu nguyện thường được ông linh ứng phù hộ. Quanh năm, không riêng người xứ Nghệ mà muôn phương khách về đây vãn cảnh hành lễ. Ngôi đền cổ và phong cảnh nên thơ sẽ tạo cho du khách những giờ phút thảnh thơi, tĩnh tại hoặc chìm đắm trong văn chầu và không khí lễ hội truyền thống linh thiêng.
Đền Củi đã được Bộ Văn hoá Thông tin ra Quyết định số 57/QĐ-VH ngày 18/1/1993 xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia.
Nguồn: denchuavietnam.net